Trên cơ sở quán triệt Điều lệ Đảng và các quy định của UBKT Trung ương, được sự quan tâm chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các cấp ủy đảng, UBKT các cấp trong Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đã nhận thức được vị trí, vai trò, tác dụng của công tác kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm (DHVP) trong điều kiện toàn Đảng thực hiện cuộc vận động xây dựng và chính đốn Đảng, nhằm ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái đang diễn ra trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước, tăng cường sức mạnh của Đảng về mọi mặt làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.
Các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy với các đại biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2017, triển khai nhiệm vụ năm 2018
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay (2015 - 2020) UBKT các cấp trong Đảng bộ tỉnh đã tiến hành kiểm tra 26 tổ chức đảng. Trong đó: UBKT Tỉnh ủy kiểm tra 11 tổ chức; UBKT cấp huyện và cơ sở kiểm tra 15 tổ chức. Qua kiểm tra kết luận 26/26 tổ chức Đảng có vi phạm, phải xử lý và đã xử lý kỷ luật 01 tổ chức Đảng với hình thức khiển trách. Đồng thời, UBKT các cấp đã kiểm tra DHVP đối với 91 đảng viên. Trong đó: UBKT Tỉnh ủy kiểm tra 07 đảng viên, UBKT cấp huyện và cơ sở kiểm tra 84 đảng viên (có 58 cấp ủy viên các cấp, chiếm 63,7% so với số đảng viên được kiểm tra). Qua kiểm tra kết luận 76 đảng viên vi phạm, bằng 83,5% so với số đảng viên được kiểm tra trong đó phải xử lý kỷ luật 64 trường hợp.
Kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có DHVP được UBKT các cấp ngày càng chú trọng đến chất lượng; phương pháp kiểm tra đã được đổi mới như: Chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra khi có DHVP ngay từ đầu năm, phân công Ủy viên UBKT phụ trách từng địa bàn về dự một số cuộc họp thường kỳ ở chi bộ cơ sở để nắm chắc tình hình đảng viên, tình hình tổ chức đảng nhất là nơi có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, đảng viên có sai phạm… Nhờ đó đã nâng cao được tính chủ động trong hoạt động của UBKT, giúp cấp ủy đánh giá đúng tình hình, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở. Quá trình kiểm tra, đã kết hợp tốt việc kiểm tra DHVP với giải quyết đơn tố cáo. Một số UBKT đã chuyển thông tin từ đơn tố cáo giấu tên, mạo tên, từ báo chí… để khảo sát dấu hiệu vi phạm, tổ chức kiểm tra. Một số UBKT phát hiện dấu hiệu vi phạm qua giải quyết tố cáo, giúp cấp ủy kiểm tra theo Điều 30 Điều lệ Đảng. Nội dung kiểm tra đã tập trung vào những dấu hiệu vi phạm liên quan đến việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tài chính, tiền tệ, thu chi ngân sách, quản lý đất đai, xây dựng cơ bản, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ gìn đoàn kết nội bộ, quản lý, giáo dục rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống cán bộ, đảng viên, công tác tổ chức cán bộ… Việc xử lý sau kiểm tra tương đối kịp thời, gắn việc xem xét, xử lý kỷ luật với thu hồi vật chất bị thất thoát, chỉ đạo xử lý tương đối đồng bộ giữa kỷ luật Đảng với kỷ luật về chính quyền, đoàn thể. Tổ chức đảng, đảng viên sau khi được kiểm tra đều có ý thức khắc phục, sửa chữa khuyết điểm và tiến bộ. Tính chiến đấu trong việc thực hiện nhiệm vụ được nâng lên.
Tuy nhiên, việc phát hiện, xác định nội dung dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên có DHVP thời gian qua của UBKT các cấp còn những hạn chế: Dấu hiệu vi phạm về nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng diễn ra một số nơi nhưng việc phát hiện, khảo sát để tổ chức kiểm tra còn ít. Còn có dấu hiệu vi phạm bị bỏ sót hoặc ít được phát hiện nhất là trong các lĩnh vực quản lý đất đai, tài nguyên môi trường, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý tài chính, tài sản công… Việc phát hiện DHVP qua công tác giám sát thường xuyên, sinh hoạt đảng, quản lý, giáo dục đảng viên chưa nhiều. Một số UBKT Đảng ủy cơ sở còn lúng túng trong việc phát hiện, xác định đối tượng, nội dung, lựa chọn phương pháp và thực hiện quy trình kiểm tra nên không kiểm tra được dấu hiệu vi phạm. Một số UBKT cấp huyện và tương đương chưa xây dựng được quy trình kiểm tra khi có DHVP và quy định hướng dẫn cụ thể về phương pháp phát hiện, xác định DHVP, hoặc đã xây dựng quy trình kiểm tra nhưng còn lúng túng, tính chiến đấu chưa cao, còn dè dặt, nể nang, ngại va chạm, mới chỉ dừng lại ở việc kiểm tra những vụ việc đơn giản, dễ làm. Việc thẩm tra xác minh làm cơ sở để kết luận vẫn là khâu yếu nhất, vì vậy, một số trường hợp tuy đã tiến hành kiểm tra nhưng kết luận không rõ ràng, có trường hợp đảng viên là cán bộ chủ chốt khi có DHVP nhưng không chủ động tiến hành kiểm tra đến khi có dư luận hoặc đơn tố cáo của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân mới tiến hành kiểm tra.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là: DHVP của tổ chức đảng, đảng viên ngày càng phức tạp, quy mô vi phạm liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đối tượng khác nhau. Thiếu sự quan tâm, chỉ đạo của cấp ủy các cấp. Nhận thức của cấp ủy về công tác này ở một số nơi còn chưa thống nhất, cho rằng: tình hình địa phương, đơn vị đang ổn định, nên không phải kiểm tra, hoặc kiểm tra phát hiện vi phạm, xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín, đến thành tích của địa phương, đơn vị. Đội ngũ cán bộ kiểm tra cấp cơ sở còn hạn chế về kiến thức, trình độ, kỹ năng nghiệp vụ chưa đáp ứng được so với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Chưa chủ động phát hiện, xác định DHVP, nhất là kiểm tra những lĩnh vực khó khăn, phức tạp, đối tượng kiểm tra là cán bộ lãnh đạo, quản lý trực tiếp hoặc người thân quen của mình. Việc khảo sát nắm tình hình, phát hiện DHVP của cán bộ, đảng viên một số UBKT và đội ngũ cán bộ kiểm tra là khâu yếu nên không xác định được đối tượng và nội dung kiểm tra...
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Đại hội XII của Đảng và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW 4 (khóa XII), đồng thời để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên, UBKT các cấp trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất: Cấp ủy, UBKT các cấp cần tiếp tục nâng cao nhận thức về công tác kiểm tra, giám sát nói chung và kiểm tra khi có DHVP nói riêng cho các tổ chức đảng và đảng viên. Coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, vừa là của cấp ủy, vừa là của UBKT. Công tác kiểm tra luôn gắn với công tác tư tưởng, dân vận và công tác cán bộ. Coi việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm vừa để giáo dục, ngăn ngừa vi phạm, vừa để bảo vệ đường lối, chủ trương, nghị quyết, tôn chỉ, mục đích của Đảng, đồng thời cũng là để bảo vệ cán bộ, đảng viên trước những thông tin dư luận không tốt.
Thứ hai: Cấp ủy các cấp phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi để UBKT thực hiện nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên cấp dưới là một nhiệm vụ khó, nhất là kiểm tra cấp ủy viên cùng cấp, đảng viên giữ chức vụ quan trọng, lĩnh vực kiểm tra nhạy cảm, nếu không có sự quan tâm, tạo điều kiện của cấp ủy thì hiệu lực, hiệu quả kết luận của UBKT không cao. Tránh tình trạng quan điểm xem xét, xử lý vụ việc giữa cấp ủy và UBKT thiếu thống nhất hoặc cấp ủy lấy lý do công tác cán bộ, ảnh hưởng phong trào, thành tích chung của địa phương, đơn vị để “tác động”, “can thiệp” cho đối tượng không bị kiểm tra, ảnh hưởng đến tính “chủ động” của UBKT.
Thứ ba: Nắm vững quy trình, phương pháp kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có DHVP. Để kịp thời phát hiện dấu hiệu vi phạm, UBKT các cấp phải đổi mới phương pháp tiếp cận và phát hiện DHVP, mở rộng và thu thập tất cả các nguồn thông tin. Từ đó UBKT các cấp tiến hành khảo sát, xem xét, tổng hợp sàng lọc nguồn thông tin để quyết định kiểm tra dấu hiệu vi phạm, tránh kiểm tra một cách tràn lan. Quyết định kiểm tra đúng thời điểm, đúng đối tượng và đúng nội dung, bảo đảm quy trình và phương pháp kiểm tra. Làm tốt công tác thẩm tra xác minh dựa vào tổ chức đảng và đảng viên, phát huy tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình của tổ chức đảng và đảng viên. Sau kiểm tra phải có kết luận chính xác, khách quan, nếu có vi phạm phải cương quyết xử lý kỷ luật kịp thời, không để kéo dài làm ảnh hưởng tác dụng một cuộc kiểm tra. Kết hợp giải quyết tố cáo với kiểm tra tổ chức Đảng và đảng viên khi có DHVP.
Thứ tư: UBKT các cấp cần tiếp tục tham mưu giúp cấp ủy ban hành và chỉ đạo thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa UBKT với các tổ chức có liên quan trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát để thực hiện tốt việc phối hợp trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu, phát hiện DHVP của tổ chức đảng, đảng viên. Đổi mới và nâng cao chất lượng sơ kết, tổng kết thực tiễn công tác kiểm tra khi có DHVP, chú trọng rút kinh nghiệm trong việc phát hiện, xác định nội dung DHVP phức tạp, nghiêm trọng, đối tượng kiểm tra là người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị để tạo sự chuyển biến trong hành động, nâng cao tính giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm.
Thứ năm: Các cấp ủy đảng phải thường xuyên quan tâm xây dựng, kiện toàn UBKT, cơ quan UBKT và đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kiểm tra một cách toàn diện cả về lý luận chính trị, chuyên môn và năng lực thực tiễn.
Thứ sáu: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, gắn với cải tiến lề lối, phong cách làm việc; nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, dự báo, sơ kết, tổng kết chuyên đề để phục vụ đắc lực việc nhận biết, phát hiện, xác định và quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có DHVP có chất lượng, hiệu lực, hiệu quả./.