Sau Nghị định 62/2020/NĐ-CP về vị trí việc làm và biên chế của công chức, mới đây, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 106/2020/NĐ-CP quy định về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập với 6 thay đổi đáng chú ý.

1. Thêm tiêu chí phân loại vị trí việc làm

Hiện theo khoản 2, Điều 2 Nghị định 41/2012/NĐ-CP, vị trí việc làm gồm 3 loại: do một người đảm nhận, do nhiều người đảm nhận và kiêm nhiệm.

Đến Nghị định 106/2020/NĐ-CP, theo Điều 5, vị trí việc làm được phân loại theo các tiêu chí sau đây:

- Theo khối lượng công việc: do một người đảm nhận, do nhiều người đảm nhận, kiêm nhiệm (giống quy định hiện nay)

- Theo tính chất, nội dung công việc: vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý; ví trị việc làm chức danh nghề nghiệp chuyên ngành; vị trí việc làm hỗ trợ, phục vụ và vị trí việc làm chức danh nghề nghiệp chuyên môn dùng chung như hành chính, tổng hợp, tổ chức cán bộ, kế hoạch tài chính…

Như vậy, Nghị định 106 đã bổ sung 1 căn cứ phân loại vị trí việc làm là theo tính chất, nội dung công việc.

2. Hai căn cứ xác định vị trí việc làm của viên chức

Điều 4 Nghị định 106 nêu rõ, căn cứ xác định vị trí việc làm bao gồm: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của đơn vị sự nghiệp công lập; mức độ phức tạp, tính chất, đặc điểm, quy mô hoạt động; phạm vi, đối tượng phục vụ; quy trình quản lý chuyên môn, nghiệp vụ theo pháp luật chuyên ngành.

Ảnh minh họa


Trong khi hiện nay, để xác định vị trí việc làm, tại Điều 4 Nghị định 41/2012 quy định 5 căn cứ gồm: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và công việc thực tế của đơn vị sự nghiệp công lập; tính chất, đặc điểm, nhu cầu công việc của đơn vị sự nghiệp công lập; mức độ phức tạp, quy mô công việc; phạm vi, đối tượng phục vụ; quy trình quản lý chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của luật chuyên ngành; mức độ hiện đại hóa công sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin; và thực trạng bố trí, sử dụng viên chức của đơn vị sự nghiệp công lập.

Từ phân tích trên, việc xác định vị trí việc làm không còn căn cứ vào mức độ hiện đại hóa công sở, trang thiết bị… cũng như thực trạng bố trí, sử dụng viên chức nữa mà thay vào đó chỉ còn dựa vào 2 căn cứ để xác định vị trí việc làm.

3. Hiệu trưởng quyết định phê duyệt vị trí việc làm

Theo đó, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên được quyết định phê duyệt vị trí việc làm cùng cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp của đơn vị, đồng thời, người này còn:

- Chỉ đạo xây dựng Đề án vị trí việc làm và lập kế hoạch số lượng người làm việc

- Bảo đảm việc làm, thu nhập ổn định đối với số lượng người làm việc của đơn vị, không làm tăng kinh phí chi đầu tư đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên

- Quyết định số lượng người làm việc của đơn vị, bảo đảm không được thấp hơn định mức số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập do Bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành…

Riêng người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách Nhà nước đảm bảo chi thường xuyên thì được:

- Chỉ đạo xây dựng Đề án vị trí việc làm; trình cấp có thẩm quyền quyết định vị trí việc làm và cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp của đơn vị

- Chỉ đạo lập kế hoạch số lượng người làm việc, kế hoạch điều chỉnh số lượng người làm việc hàng năm của đơn vị theo quy định tại Nghị định này, trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định

- Thống kê, tổng hợp vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc của đơn vị, báo cáo cơ quan cấp trên quản lý trực tiếp

4. Thay đổi về căn cứ điều chỉnh vị trí việc làm

Bên cạnh việc xác định vị trí việc làm, khoản 1 Điều 8 Nghị định 106 cũng nêu 2 căn cứ để điều chỉnh vị trí việc làm gồm:

- Đơn vị sự nghiệp công lập có sự thay đổi một trong các căn cứ để xác định vị trí việc làm nêu trên (bổ sung thêm căn cứ "Mức độ phức tạp, tính chất, đặc điểm, quy mô hoạt động; phạm vi, đối tượng phục vụ; quy trình quản lý chuyên môn, nghiệp vụ theo pháp luật chuyên ngành")

- Đơn vị sự nghiệp công lập được tổ chức lại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền (bỏ căn cứ đơn vị sự nghiệp công lập bị giải thể như quy định hiện nay)

5. Đổi mới toàn bộ căn cứ xác định cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp

Theo Điều 6 Nghị định 41/2012/NĐ-CP, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp được xác định theo các căn cứ sau:

- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập được cơ quan có thẩm quyền quyết định

- Tính chất, đặc điểm, phạm vi, quy mô, mức độ phức tạp của công việc

- Số lượng vị trí việc làm và chức danh nghề nghiệp tương ứng

Trong khi đó, theo Khoản 3 Điều 4 Nghị định 106/2020/NĐ-CP, căn cứ xác định cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp bao gồm:

- Danh mục vị trí việc làm

- Mức độ phức tạp của công việc của vị trí việc làm

- Tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp viên chức tương ứng với vị trí việc làm.

6. Kéo dài thời hạn thẩm định Đề án vị trí việc làm viên chức

Theo Điều 7 Nghị định 106/2020/NĐ-CP, trong thời hạn 40 ngày (đối với hồ sơ đề nghị thẩm định và phê duyệt lần đầu), 25 ngày (đối với hồ sơ đề nghị điều chỉnh) kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm thẩm định Đề án vị trí việc làm quy định tại khoản 3 Điều 6 Nghị định 106/2020/NĐ-CP phải hoàn thành việc thẩm định để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định phê duyệt vị trí việc làm và cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý. Trường hợp cấp có thẩm quyền quyết định không đồng ý thì thông báo bằng văn bản cho đơn vị sự nghiệp công lập và nêu rõ lý do.

Trong khi đó, tại khoản 4 Điều 9 Nghị định 41/2012/NĐ-CP quy định chỉ trong thời hạn 15 ngày làm việc, cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao trách nhiệm thẩm định Đề án vị trí việc làm phải hoàn thành việc thẩm định để trình cơ quan có thẩm quyền.

Như vậy, từ ngày 15/11/2020 sẽ kéo dài thời hạn thẩm định Đề án vị trí việc làm thêm 25 ngày so với quy định hiện hành./.

PV